Đề án bảo tồn voi Dak Lak: Tạo điều kiện, môi trường tốt nhất để voi nhà sinh sản
Cập nhật lúc: 15/10/2012
228
Vào mùa động dục, voi đực trở nên hung dữ, có thể làm hại voi cái và
thậm chí cả nài voi. Tập tục của người bản địa, nếu voi đực làm bị
thương voi cái thì chủ voi bị phạt đền rất nặng, nhiều khi đền một con
trâu trưởng thành. Để không bị phạt vạ, chủ voi đã cách ly voi đực hoàn
toàn với voi cái. Do đó, 20 năm nay, voi nhà hoàn toàn không sinh sản.
TS. Cao Thị Lý, Trưởng bộ môn Quản lý tài nguyên rừng và môi trường
(Khoa Nông lâm nghiệp, Trường Đai học Tây Nguyên) cho biết: Trong thời
gian dài, bản năng sinh sản không được đáp ứng khiến tập tính sinh sản
của voi nhà thay đổi, điều này gây khó khăn lớn trong việc giúp voi nhà
tìm lại bản năng sinh sản. Để voi nhà Dak Lak có thể sinh sản, có 3 việc
cần làm ngay: Trước hết, cần xây dựng một khu vực tập trung để voi có
thể làm quen, kết bạn với nhau rồi đi đến giao phối. Bởi voi cũng gần
giống con người, cần có thời gian “tìm hiểu” trước khi trở thành bạn
tình. Khu vực này phải có sinh cảnh giống với điều kiện sống tự nhiên
của voi, có thức ăn phong phú và hơn hết là phải bảo đảm an toàn, kín
đáo. Thứ hai, Đề án thực hiện chính sách tài chính rộng mở để chủ voi
đồng ý đưa voi về rừng. Theo đó, cả chủ voi lẫn voi nhà được Nhà nước
chi trả trong quá trình sinh sản, nếu voi mang thai thì quá trình trả
tiền kéo dài đến khi sinh hạ voi con, như vậy không mất đi thu nhập do
voi mang lại mà voi còn được nghỉ ngơi, chăm sóc tốt nên tất cả nài voi
đều hồ hởi hưởng ứng. Thứ ba là khi thực hiện Đề án, nguồn nhân lực có
chuyên môn về voi cũng rất quan trọng và cần thiết.
Ông Huỳnh Trung
Lân, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn voi Dak Lak, cho hay: Tổng kinh phí của
Đề án là 60 tỷ đồng, kéo dài từ nay đến hết năm 2014. Trong Đề án sẽ xây
dựng 2 khu tập trung tại huyện Buôn Đôn với diện tích 200 ha, và huyện
Lak là 100 ha. Ở đây cũng đầu tư hạ tầng hoàn chỉnh, gồm bệnh viện voi,
vườn ươm thức ăn voi với khoảng 70 loài cây cỏ… Theo đó, vào mùa động
dục từ tháng 6–10 hằng năm, voi được tập trung về đây, được chăm sóc sức
khỏe, bảo vệ an toàn để có thể sinh sản. Hiện nay, Trung tâm Bảo tồn
voi đã cử 4 nhân viên đi tập huấn chăm sóc voi tại Thảo cầm viên Sài Gòn
trong 15 ngày; và trong tương lai, Trung tâm sẽ cử cán bộ ra các nước
thành công trong bảo tồn voi như Sri Lanka, Thái Lan… để học hỏi, nâng
cao chuyên môn. Trung tâm Bảo tồn voi hiện có 12 biên chế, trong đó chỉ
có một thạc sĩ thú y về động vật nói chung chứ không có chuyên gia nào
về voi; mặt khác, ở Việt Nam chưa có ngành đào tạo nào về động vật hoang
dã lớn như voi.
Bảo tồn được voi mới giữ được văn hóa truyền thống
PGS.
TS. Bảo Huy (bộ môn Quản lý tài nguyên rừng và môi trường, Khoa Nông
lâm nghiệp, Đại học Tây Nguyên) đã dành rất nhiều tâm sức để xây dựng Đề
án bảo tồn voi; ông khẳng định: “Voi nhà sinh sản là việc làm được,
nhưng phải khẩn trương, bởi trong 5–10 năm nữa, voi nhà ở Tây Nguyên sẽ
hết tuổi sinh sản”.
Voi nhà bị xiềng xích, khai thác kiệt quệ cho du lịch.
Nhìn
sang các nước khác, như Thái Lan thành lập Trung tâm Thuần dưỡng voi
châu Á đầu tiên trên thế giới vào năm 1969; cạnh đó, Viện Voi quốc gia
đặt dưới sự bảo trợ của Hoàng gia Thái Lan với nhiều hoạt động như bệnh
viện voi, đội cứu hộ voi, đội khám chữa bệnh lưu động cho voi trên khắp
đất nước, đào tạo quản tượng... Hay ở Sri Lanka, năm 1975, nước này chỉ
có 5 con voi con là những con thất lạc được cứu hộ về trại voi, đến năm
2009, bằng phương pháp sinh sản tự nhiên, nước này đã có đàn voi với số
lượng 84 con. Dựa trên kinh nghiệm của thế giới, có thể khẳng định rằng
cho voi sinh sản tự nhiên là một việc nằm trong tầm tay.
Cùng với quá
trình sinh sản voi tự nhiên, các lớp truyền dạy nghề săn bắt, nuôi
dưỡng và huấn luyện voi cũng được tổ chức do các nghệ nhân lớn tuổi
truyền dạy. “Bản sắc của Tây Nguyên là gắn liền với voi, nên voi con
sinh ra cần linh hoạt giao cho các nài voi chăm sóc, huấn luyện. Nhờ đó,
văn hoá cộng đồng về voi được lưu truyền cho thế hệ sau”, PGS. TS. Bảo
Huy trăn trở. Vừa giúp voi sinh sản, nhân số lượng cá thể nhưng cũng
phải lưu giữ được nét đẹp văn hoá truyền thống liên quan đến voi mới
được xem là thành công trong bảo tồn voi Dak Lak.
Các nhà khoa học đã
tâm huyết, nhưng trên hết cần sự vào cuộc mạnh mẽ và quyết liệt từ
chính quyền để Đề án triển khai nhanh trong thực tế. Nhắc đến Tây
Nguyên, trong tâm thức của mọi người dân Việt là nhà dài, cồng chiêng và
những chú voi rừng được thuần dưỡng. Hy vọng với đề án này, Dak Lak sẽ
gìn giữ được bản sắc “độc nhất vô nhị” như đua voi, phục dựng cảnh săn
bắt thuần dưỡng voi, cúng voi, voi đá bóng, vượt sông…
Song hành với
sinh sản tự nhiên, Đề án cũng nói đến sinh sản nhân tạo. Nhưng theo các
chuyên gia, sinh sản nhân tạo chỉ có ý nghĩa về mặt học thuật, nghiên
cứu chứ thực tế Việt Nam chưa có điều kiện để triển khai. Ngay các nước
như Sri Lanka hay Thái Lan, sinh sản nhân tạo voi rất khó khăn và hiếm
hoi.
(Nguồn Báo Dak Lak)