Hạn chế xuất khẩu cà phê chốt giá sau: Nên hay không nên?
Cập nhật lúc: 05/10/2011 627
Cập nhật lúc: 05/10/2011 627
Thay vào đó, Vicofa đưa ra các khuyến cáo nên bán cà phê theo phương thức giao ngay, chốt giá ngay. Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online xin lược ghi lại bài phân tích của Tiến sĩ Bảo Trung đăng tải trên website Giacaphe để bạn đọc tham khảo.
- Thứ nhất, đó là phương thức giao ngay, thuật ngữ
tiếng Anh gọi là outright, vốn là phương thức mua bán truyền thống trong
xuất khẩu cà phê của Việt Nam diễn ra trước năm 1995. Theo phương thức
này hai bên mua và bán ký kết hợp đồng với giá cố định tại thời điểm
hiện tại và thời gian giao hàng cố định. Họ không quan tâm đến giá tại
thời điểm giao hàng cao hơn hay thấp hơn giá cố định đã ký kết.
- Thứ hai, phương thức differential hay price to be
fixed, được gọi theo tiếng Việt là phương thức “trừ lùi, chốt giá sau”.
Phương thức bán hàng này được xem là một trong công cụ phòng chống rủi
ro giá cả. Do vậy, kể từ đầu thập niên 1990 của thế kỷ 20 đến nay, đa
phần các doanh nghiệp xuất khẩu áp dụng phương thức này mà không áp
dụng phương thức outright.
Vậy, tại sao từ tháng 10/2008 đến nay, Vicofa thường xuyên khuyến cáo các doanh nghiệp không nên dùng?
Giá kỳ hạn này thường căn cứ vào giá trên Sàn giao dịch hàng hóa
London (Liffe). Nếu chất lượng hàng hóa của người bán thấp hơn tiêu
chuẩn chất lượng quy định trong hợp đồng kỳ hạn sẽ sử dụng áp dụng “giá
trừ lùi” (minus); nếu tốt hơn sử dụng “ giá cộng thêm” (plus).
Như vậy, bản chất của “giá cộng thêm” hoặc “giá trừ lùi” ở đây là so
sánh chất lượng hàng hóa mà cụ thể ở đây là cà phê Robusta loại 2 với
cà phê Robusta loại 2 đã được tiêu chuẩn hóa trên Sàn giao dịch kỳ hạn
London.
Có hai loại hợp đồng chốt giá (Fixing price) sau:
- Loại thứ nhất, hợp đồng người bán nắm quyền chốt
giá (PBTF – Seller’s call contracts). Đây là hợp đồng bằng văn bản cho
phép người bán chốt giá bất cứ lúc nào trong khoảng thời gian trước
ngày thông báo giao hàng đầu tiên của một hợp đồng kỳ hạn cụ thể. Rủi
ro giá cả do người mua chịu, nên người mua phải sử dụng hợp đồng kỳ hạn
để bảo hộ rủi ro.
- Loại thứ hai, hợp đồng người mua nắm quyền chốt
giá (PBTF – Buyer’s call contract). Đây là hợp đồng cho phép người mua
chốt giá bất cứ thời điểm nào trong khoảng thời gian trước ngày thông
báo giao hàng đầu tiên của một hợp đồng kỳ hạn cụ thể. Rủi ro giá cả do
người bán chịu, nên người bán phải sử dụng hợp đồng kỳ hạn để bảo hộ
rủi ro.
Giả sử vào ngày 1/6/2010, người bán (Việt Nam), người mua (nước ngoài) thỏa thuận mua bán như sau:
Điều này có nghĩa là giá thanh toán (settlement price) sẽ được chốt
theo giá kỳ hạn (futures price) của hợp đồng kỳ hạn cà phê robusta, giao
hàng vào tháng 1/2011 của Liffe (theo quy định của Liffe, thời hạn
giao hàng của hợp đồng kỳ hạn trong năm vào tháng 1, 3, 5, 7, 9 và 11).
Theo quy định về hợp đồng kỳ hạn cà phê Robusta của London, ngày
thông báo giao hàng đầu tiên (first delivery notice day) là bất cứ ngày
nào trong tháng giao hàng của hợp đồng kỳ hạn. Như vậy nhà xuất khẩu
Việt Nam sẽ quyết định chốt giá bất cứ ngày nào sau khi ký hợp đồng cho
đến ngày thông báo đầu tiên của tháng giao hàng của hợp đồng kỳ hạn
(1/2011) trừ lùi 100 đô la/tấn.
Sau khi ký hợp đồng, lúc nào giá thị trường trong nước xuống, nhà
xuất khẩu tiến hành mua vào cho đủ 100 tấn; lúc nào giá Liffe tăng sẽ
chốt giá.
Giả sử giá bình quân của lô hàng mua vào là 20.000 đ/kg. Ngày
1/11/2011, giá kỳ hạn của hợp đồng kỳ hạn giao hàng tháng 1/2011 của
Liffe là 1.300 đô la/tấn thì giá thanh toán (settlement price) sẽ là
1.200 đô la/tấn; tương đương 24.000 đ/kg (lấy tỷ giá 20.000 đồng). Như
vậy nhà xuất khẩu tính toán thấy mức chênh lệch 4.000 đồng/kg, sau khi
trừ thuế, phí lưu kho, lãi vay ngân hàng và những khoản khác vẫn lời,
nhà xuất khẩu quyết định gọi cho người mua chốt giá theo giá trên hợp
đồng là 1.200 đô la/tấn và đến 1/2011 giao hàng.
Như vậy, nhà xuất khẩu an tâm lô hàng này đã có lời. Vậy tại sao
Vicofa khuyến cáo các doanh nghiệp không kinh doanh theo phương thức
này vì sợ rủi ro. Ở đây có ba vấn đề nảy sinh trong thực tế.
1.Thứ nhất, tùy theo kinh nghiệm và khả năng đàm
phán với người mua mà mức trừ lùi khác nhau. Qua khảo sát các doanh
nghiệp xuất khẩu cà phê, “mức trừ lùi” của các doanh nghiệp có khác
nhau.So sánh hợp đồng của Công ty Simexco Đăk Lăk và Công ty Cổ phần
Đầu tư và Xuất nhập khẩu Tây Nguyên (Vinacafe Buôn Ma Thuột) tại thời
điểm ký kết hợp đồng tháng 1/2007 như sau:
Như vậy, doanh nghiệp nào có mức trừ lùi cao có khả năng khó cạnh
tranh mua cà phê nhân xuất khẩu với doanh nghiệp có mức trừ lùi thấp.
Điều này có nghĩa doanh nghiệp bị trừ lùi cao bị thiệt hơn doanh nghiệp
có mức trừ lùi thấp.
2.Thứ hai, các doanh nghiệp Việt Nam phần lớn không
đủ vốn mua hàng để tồn trữ nên họ thường thực hiện sai phương thức này
dẫn đến thua lỗ. Đối với những doanh nghiệp xuất khẩu cà phê lớn thường
mua hàng trước để dự trữ trong kho và theo dõi giá kỳ hạn khi thấy giá
lên có lời họ sẽ “chốt giá”. Điều này có nghĩa họ đã có lời.
Tuy nhiên nhiều doanh nghiệp không đủ tiềm lực kinh tế (không có tiền
mua dự trữ) và ngân hàng không cho vay trên hợp đồng chưa có giá cụ
thể nên các doanh nghiệp này khi sắp đến ngày giao hàng tiến hành “chốt
giá” với nhà nhập khẩu để vay tiền ngân hàng mua hàng.
Trong trường hợp này nếu giá cà phê nhân xuất khẩu trên nội địa thấp
hơn giá trên hợp đồng thì doanh nghiệp có lời còn ngược lại thì thua
lỗ. Tuy nhiên trong thực tế khi doanh nghiệp thực hiện mua vào để giao
hàng thì giá cà phê nhân xuất khẩu trên thị trường nội địa có xu hướng
tăng làm doanh nghiệp bị thua lỗ.
3.Thứ ba, giá cà phê trên thế giới từ khoảng tháng
10/2008 đến đầu năm 2010 có xu hướng tăng giảm bất thường và các doanh
nghiệp Việt Nam thường “chốt giá” vào thời điểm giá xuống do “tâm lý sợ
giá xuống nữa” nên dẫn đến thu nhập thấp hoặc thua lỗ.
Đây chính là một số nguyên nhân dẫn đến thua lỗ của các doanh nghiệp
xuất khẩu cà phê. Tuy nhiên, điều này không phản ánh bản chất kinh
doanh của phương thức này mà cho thấy trình độ vận dụng phương thức này
của các doanh nghiệp còn hạn chế.
Do vậy, việc Vicofa khuyến cáo các doanh nghiệp kinh doanh cà phê
xuất khẩu không áp dụng phương thức này là đi ngược lại xu hướng phát
triển của thế giới. Nếu vậy, các doanh nghiệp Việt Nam khó có thể lớn
mạnh và hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
(Theo Tiến sĩ Bảo Trung/Giacaphe)
Ở Việt Nam, trong thời gian qua, các doanh nghiệp áp dụng một trong hai
phương thức ký kết hợp đồng xuất khẩu cà phê ra nước ngoài.
Phương thức kinh doanh chốt giá sau (Price-to-be-fixed – PTBF) là hình
thức cho phép người mua hoặc người bán “chốt giá” tại thời điểm nào đó
trong tương lai, trước khi thực hiện giao, nhận hàng. Người mua và người
bán sẽ thỏa thuận về số lượng, chủng loại, tháng giao hàng (delivery
month). Riêng đối với điều khoản giá thì sẽ áp dụng một trong hai hình
thức: thứ nhất, giá thanh toán là giá “trừ lùi” (minus) hoặc thứ hai,
giá cộng thêm (plus) so với giá giao dịch trên thị trường kỳ hạn
(futures price).
Để hiểu rõ hơn phương thức kinh doanh này, chúng ta xem ví dụ sau về cơ
chế xác định giá hợp đồng xuất khẩu cà phê theo phương thức “trừ lùi
chốt giá sau”, người bán nắm quyền chốt giá:
• Số lượng: 100 tấn cà phê robusta loại 2;
• Tháng giao hàng: tháng 1/2011;
• Giá cả hai bên thỏa thuận trên hợp đồng ngoại thương thể hiện như sau: London Robusta January minus 100 đô la/ton.
• Người bán nắm quyền chốt giá (PTBF – Seller’s contract).
Loại cà phê |
Thời hạn giao hàng |
Hợp đồng chốt giá |
Mức trừ lùi (đô la/tấn) |
|
SimexcoDak Lak |
Vinacafe Buôn Ma Thuột |
|||
R2 |
Tháng 5/2007 |
Kỳ hạn 5/2007 |
70 |
120 |
Hôm nay:
Hôm qua:
Trong tuần:
Tất cả: