Mục tiêu cụ thể của
chiến lược là:
Năm 2010, về cấp
nước đạt 85% dân nông thôn dùng nước hợp vệ sinh, 70% cư dân nông thôn có hố xí
hợp vệ sinh. Năm 2020, tất cả cư dân nông thôn sử dụng nước sạch đạt tiêu chuẩn
QG, sử dụng hố xí hợp vệ sinh và thực hiện tốt vệ sinh cá nhân, giữ sạch môi
trường làng xã.
Để thực hiện
chiến lược, Chính Phủ đặt ra các giai đoanh ngắn gọi là chương trình mục tiêu
Quốc gia giai đoạn I, thực hiện từ 2000 đén 2005, giai đoạn II thực hiện từ
2006 đến 2010.
Năm 2010, năm
cuối cùng của chương trình mục tiêu QG II. Trong 5 năm, tổng vốn đầu tư cho
chương trình là: 235 tỉ. Tróng đó vốn 3 nhà tài trợ hòa nhập vào dòng ngân sách
TW là 119,5 tỉ; vốn đối ứng của NS địa phương là 19,2 tỉ; vốn vay ưu đãi theo
quyết định 62 của Thủ Tướng Chính Phủ là 96,6 tỉ. Với lượng vốn như trên, theo
kết quả giám sát đánh giá toàn diện năm 2009 và 2010, Đak Lak chúng ta đã đưa các tiêu chí về nước sạch và vệ sinh môi
trường nông thôn đạt:
- Tỷ lệ người
dân sử dụng nước hợp vệ sinh: 72,08%
- Tỷ lệ dân
được sử dụng nhà vệ sinh: 49,36%
- Tỷ lệ nhà
trẻ, MG được cấp nước và vệ sinh: 89,2%
- Tỷ lệ trường
học được cấp nước hợp vệ sinh: 88,03%
- Tỷ lệ trạm y
tế được cấp nước và vệ sinh: 79,9%
- Tỷ lệ trụ sở
UBND xã được cấp nước và vệ sinh: 74,4%.
- Tỷ lệ chợ có
công trình cấp nước và vệ sinh: 28,2%.Như vậy, so với mục tiêu của chiến lược Quốc
Gia đặt ra, hai tiêu chí quan trọng về cấp nước chúng ta thấp hơn là 12,9%; về
vệ sinh thấp hơn là 20,64%.
Năm 2011, kế
hoạch số 671/QĐ-UBND ngày 16/3/2011, UBND tỉnh giao mục tiêu cho ngành cấp nước
và vệ sinh nông thôn phấn đấu đạt về cấp nước 73,8% dân nông thôn có nước ăn uống
hợp vệ sinh; về vệ sinh phấn đấu đạt 49% dân nông thôn có hố xí hợp vệ sinh. Về
vốn đầu tư có 21,1 tỉ. Kế hoạch dành riêng cho vệ sinh hộ gia đình 1,4 tỉ, dành
cho cấp nước và vệ sinh công sở 2,8 tỉ, cho chuẩn bị đầu tư 4,296 và cho truyền
thông giáo dục là 2,1 tỉ, còn lại cho cấp nước tập trung là 14,95 tỉ.
Với kế hoạch vốn như trên và các công trình chuẩn bị
đưa vào sử dụng là Eamlay- M’drak, Earoc- Easup, Cư kty- Krong Bong, Eatul-Cư
Mga, EaHo-Krong Năng (UBND tỉnh giao cho các huyện triển khai thi công 2008),
cộng với 4 công trình mới khởi công của Trung Tâm ( khởi công 12/2010)đều đưa
vào cấp nước phục vụ nhân dân đạt công suất 60% so với thiết kế, thì mục tiêu
cấp nước và vệ sinh năm 2011 nêu trên là rất khả thi.
Vậy vấn đề cần quan tâm
là mục tiêu Quốc Gia đề ra cho giai đoạn 2015. Theo dự thảo điều chỉnh chiến
lược Quốc gia, mục tiêu đến năm 2015 các chỉ tiêu cần đạt là:
-60% dân cư nông thôn sử dụng nước sạch đạt tiêu
chuẩn Quốc gia, với số lượng 60lit/người . ngày.
-75% hộ gia đình nông thôn sử dụng
nhà tiêu hợp vệ sinh.
-35% số xã trong cả nước có tổ thu
gom rác thải sinh hoạt.
-75% số hộ chăn nuôi có chuồng trại
hợp vệ sinh.
-100% các cơ sở công cộng: trường
học, trạm xá,nhà trẻ mẫu giáo, UBND xã, chợ nông thôn được sử dụng nước sạch và
nhà tiêu hợp vệ sinh.
Năm 2020,
cần đạt:
-80% dân cư nông thôn sử dụng nước sạch đạt tiêu
chuẩn Quốc gia, với số lượng 60lit/người . ngày.
-90% hộ gia đình nông thôn sử dụng
nhà tiêu hợp vệ sinh.
-50% số xã trong cả nước có tổ thu
gom rác thải sinh hoạt.
-90% số hộ chăn nuôi có chuồng,
trại hợp vệ sinh.
-100% các cơ sở công cộng: trường
học, trạm xá,nhà trẻ mẫu giáo, UBND xã, chợ nông thôn được sử dụng nước sạch và
nhà tiêu hợp vệ sinh.
Đây là những mục
tiêu lớn của chiến lược Quốc gia về NS&VS nông thôn. Vậy cần có sự chỉ đạo
quyết liệt của các cấp chính quyền địa phương, sự hợp lực từ nhiều cấp, nhiều
ngành và đặc biệt là sự chủ động thực hiện của người dân nông thôn.
Để đạt được mục tiêu
trên, trước mắt, chúng ta đẩy mạnh công tác truyền thông, đưa các thông điệp
của chiến lược Quốc gia đến các cấp các ngành, đến từng người dân nông thôn.
Việc tiếp theo, đó là đầu tư NS&VS theo qui hoạch đã được UBND tỉnh phê
duyệt. Để công trình được đầu tư hoạt động bền vững, thực sự phát huy hiệu quả
đồng vốn, cần củng cố và sắp xếp lại bộ máy quản lý vận hành sau đầu tư và xem
đây là một giải pháp quan trọng nhất.
Mục
tiêu và những khó khăn đang ở phía trước, chúng ta cần chấp nhận đối mặt với
những khó khăn để tìm giải pháp và bước đi thích hợp nhất, đó là CTMTQG cấp
nước và vệ sinh nông thôn.
Phạm Phú Bổn - TT Nước SH và MTNT