Kinh nghiệm quản lý rủi ro về giá cà phê tại các nước
Cập nhật lúc: 22/08/2011
420
Một trong những mục tiêu chính của Federacafé là bảo vệ thu nhập của
người nông dân thông qua việc đảm bảo giá cho họ. Việc đảm bảo mức giá
trong nước như vậy thông qua quỹ bình ổn, Quỹ cà phê quốc gia (National
Coffee Fund). Đây là một quỹ công được quản lý bởi Federacafé, hoạt động
theo hợp đồng được tái ký kết hằng năm. Quỹ hoạt động ở cấp độ xuất
khẩu, bao trùm cả Federacafé và công ty xuất khẩu tư nhân. Nguồn lực tài
chính được tích lũy trong suốt thời gian giá thế giới cao được sử dụng
để hỗ trợ giá trong nước khi giá thế giới thấp.
Trong suốt giai đoạn
giá cà phê thấp kéo dài bắt đầu từ cuối những năm 90, khi giá trong nước
cứ mỗi vài tuần lại được điều chỉnh giảm để giữ cho FNC không mắc nợ,
Federacafé đã xem xét khả năng sử dụng hợp đồng giao sau và quyền chọn
nhằm đảm bảo quỹ FNC không bị mất hết. Nhưng giá tăng trở lại và những
thảo luận đó đã tạm gác lại.
Costa Rica:
Costa Rica lại có một hệ
thống cà phê đặc biệt khác. Nông dân không bán mà vận chuyển cà phê đến
công ty chế biến – công ty này sẽ chế biến và bán cà phê trên danh nghĩa
nông dân; lợi nhuận được chia ra.
Là một phần của hệ thống, nông dân
sẽ nhận được khoản tiền ứng trước, vài tháng trước khi vận chuyển cà
phê đến nhà máy chế biến. Công ty chế biến thanh toán một phần nữa khi
nông dân vận chuyển cà phê đến, và phần còn lại (thông thường khoảng
40%) sẽ thanh toán sau khi xuất khẩu.
Hầu hết những công ty chế biến
là tư nhân, nhưng nhóm chế biến lớn thứ hai tại Costa Rica do Liên đoàn
Hợp tác xã nông dân trồng cà phê (Federation of Cooperatives of Coffee
Growers) nắm giữ.
Điều này mang lại cho nông dân mức giá tối thiểu
một cách hiệu quả. Và cũng hấp dẫn nhà chế biến sử dụng hợp đồng quyền
chọn để chốt giá bán tối thiểu: họ có thể sử dụng hợp đồng quyền chọn để
cung cấp mức giá tối thiểu cao hơn cho nông dân và do đó tăng tính cạnh
tranh so với những công ty chế biến khác (khu vực chế biến tại Costa
Rica rất cạnh tranh) – và tránh rủi ro nếu như giá giảm, sẽ gây tổn thất
lớn. Hợp đồng quyền chọn do đó được sử dụng rộng rãi kể từ những năm
đầu thập niên 90.
Guatemala:
Nông dân trồng cà phê tại Guatemala
có mức độ phòng hộ tương đối cao, đó là do chương trình xây dựng và đào
tạo năng lực lâu dài của Liên hiệp nông dân trồng cà phê quốc gia
(National Coffee Growers’ Federation – Anacafé).
Đây là tổ chức tư
nhân hoạt động phi lợi nhuận. Anacafé chỉ là nhân tố tạo điều kiện thuận
lợi chứ không cung cấp tín dụng cũng không phải là môi giới. Nông dân
tiếp cận tín dụng ngân hàng thương mại thuận lợi hơn thông qua hệ thống
tín dụng được Anacafé giới thiệu vào năm 1994. Sử dụng các công cụ quản
lý rủi ro là điều kiện tiên quyết để tham gia vào chương trình tín dụng
này. Điều này làm giảm đáng kể rủi ro cho ngân hàng, cho phép họ cung
cấp tín dụng cho nông dân trồng cà phê với lãi suất thấp nhất (theo ước
tính của Anacafé, điều này dẫn tới tiết kiệm lãi suất cho nông dân được
hơn 10% giá trị khoản vay – khoảng 2 triệu USD mỗi năm). Các cuộc phỏng
vấn trong những năm đầu của thế kỷ 21, khi giá cà phê chạm tới mức thấp
nhất trong lịch sử, nông dân cho rằng chính sách phòng hộ là nhân tố
quan trọng giúp họ duy trì cuộc sống.
Hệ thống này có những thành phần sau:
•Anacafé
tổ chức đào tạo nhiều lĩnh vực khác nhau cho nông dân: giúp nông dân
hiểu và tính toán chi phí sản xuất; giải thích cơ chế hoạt động của tín
dụng nông nghiệp; và giải thích cách thức mà các thị trường thế giới xác
định giá cà phê, và cách mà rủi ro được quản lý. Anacafé duy trì việc
cập nhật thông tin thị trường cho nông dân – nông dân nhận được các máy
nhắn tin cung cấp giá trên các thị trường giao sau. [1]
•Nhân viên Anacafé sẽ đánh giá sản lượng tiềm năng và hỗ trợ nông dân những giấy tờ cần thiết để làm thủ tục vay.
•Anacafé
cung cấp cho nông dân danh sách các ngân hàng mà Anacafé ký kết thỏa
thuận, và tùy nông dân chọn ngân hàng nào. Đơn vay và các giấy tờ cần
thiết sẽ được Anacafé chuyển đến cho ngân hàng.
•Thông thường ngân
hàng sẽ chấp nhận khoản vay nhưng với điều kiện là nông dân phải tham
gia vào một chiến lược phòng hộ (có thể chọn các công cụ như: hợp đồng
kỳ hạn giá cố định, bán hợp đồng giao sau, mua hợp đồng quyền chọn bán,
chiến lược collar…).
•Nông dân thường phòng hộ rủi ro về giá thông
qua một công ty xuất khẩu mà họ giao dịch với cùng khối lượng hàng mà họ
sẽ giao. Công ty xuất khẩu quản lý rủi ro bằng cách bán hợp đồng giao
sau hoặc mua hay bán hợp đồng quyền chọn trên NYBOT. Công ty xuất khẩu
thường tài trợ tài chính trước cho các chiến lược quản lý rủi ro: họ sẽ
trả phí quyền chọn, sau đó trừ vào giá cà phê khi nông dân giao hàng, và
cả các yêu cầu ký quỹ. [2] Anacafé cung cấp thông tin và hỗ trợ công ty
xuất khẩu quản lý rủi ro (nếu như nông dân không giao hàng, công ty
xuất khẩu có thể chịu những khoản lỗ không được bù đắp khi ở vị thế
trong các hợp đồng giao sau và quyền chọn), nhưng không đưa ra bất kỳ
đảm bảo nào. Cũng như vậy, Anacafé không giúp nhà xuất khẩu có được
nguồn quỹ để tài trợ tài chính cho những giao dịch này. Điều này rõ ràng
là phần yếu nhất của hệ thống: nhà xuất khẩu đơn giản là không có đủ
nguồn tiền để quản lý rủi ro giá của rất nhiều nông dân.
Tất cả nông
dân trong nước, theo quy định của luật, đều liên kết với Anacafé và có
thể tham gia chương trình này. Những nông dân nhỏ (và nhiều nông dân tại
Guatemala sản xuất ít hơn 2.000-3.000 lbs, so với kích thước hợp đồng
giao sau NYBOT là 37.500 lbs) cũng có thể sử dụng các công cụ quản lý
rủi ro bằng cách tập hợp nhiều nông dân nhỏ lại với nhau. Hợp tác xã
cũng có thể tham gia – ví dụ, trong một trường hợp, một hợp tác xã 400
thành viên, bao gồm nhiều nông dân không biết chữ, cùng phòng hộ trên
thị trường New York. Phần trăm nông dân tham gia phòng hộ tăng từ 0% đến
khoảng 20% vào cuối những năm 90, đó là kết quả của những hoạt động của
Anacafé. Trong một cuộc phỏng vấn [3], nhiều nông dân tham gia đã cho
biết chính sách phòng hộ của họ có vai trò chủ chốt để duy trì cuộc
sống.
Những năm đầu thập niên 90, Guatemala cũng sử dụng khoản vay
liên kết với giá hàng hóa [commodity price-linked loan]. Anacafé phát
hành một trái phiếu trên thị trường vốn của Mỹ, lợi nhuận sẽ cho nhà
xuất khẩu cà phê của nước này vay lại – những nhà xuất khẩu đã trải qua
giai đoạn sụp đổ của thị trường cà phê trong cuối những năm 80.
1.Anacafé nhận 1% mức phí mà nông dân phải trả dựa trên số tiền tín dụng mà họ vay.
2.Ngân
hàng không sẵn sàng tài trợ tài chính trước cho các chi phí phòng hộ
này là một trở ngại chính gây khó khăn cho việc mở rộng hoạt động phòng
hộ của nông dân. Đây cũng là nguyên nhân quan trọng giải thích tại sao
công ty xuất khẩu thường đê nghị nông dân sử dụng collar, cũng được biết
với tên gọi “hợp đồng quyền chọn chi phí bằng 0”: phí mua quyền chọn
bán sẽ được bù đắp bằng phí bán quyền chọn mua – nông dân được bảo vệ
khỏi rủi ro giá giảm nhưng đồng thời cũng từ bỏ tất cả hoặc một phần lợi
nhuận nếu giá tăng.
3.Thực hiện năm 2000, là một phần nghiên cứu của
Lực lượng đặc nhiệm về quản lý bất trắc trong nông sản hàng hóa ở các
nước đang phát triển (International Task Force on Commodity Risk
Management in Developing Countries), Ngân hàng Thế giới, và kinh nghiệm
của Guatemala được đề cập như một trong những nội dung chính trong phim
tài liệu nói về sự phù hợp của quản lý rủi ro giá cho các nước đang phát
triển.
(Nguồn Giacaphe.com)