Năm 2011: Xuất siêu nông, lâm và thủy sản
Cập nhật lúc: 06/01/2012
204
Năm 2011, lượng gạo xuất khẩu đạt khoảng 7,2 triệu tấn, với kim ngạch
3,7 tỷ USD, so cùng kỳ năm trước tăng 4,4% về lượng và 14% về giá trị.
Giá gạo xuất khẩu tiếp tục tăng nhẹ so với tháng trước, giá gạo bình
quân 11 tháng đạt 510 USD/tấn, tăng 9,1% so với năm trước.
Tương tự
như vậy, lượng tiêu xuất khẩu đạt 125 ngàn tấn, kim ngạch 736 triệu USD,
so với cùng kỳ năm trước lượng tăng 7,2% và kim ngạch tăng tới 74,6%.
Giá xuất khẩu tiêu đã đạt một kỷ lục mới, giá bình quân 11 tháng đạt
5.867 USD/tấn, tăng 66,3% so với cùng kỳ.
Cả năm 2011, lượng cao su
xuất khẩu lên 846 ngàn tấn, kim ngạch đạt 3,3 tỷ USD, tăng 8,2% về lượng
và tăng tới 37,5% về giá trị. Giá cao su đang có xu hướng giảm nhưng so
với cùng kỳ năm ngoái vẫn tăng tới 38,2%, giá bình quân 11 tháng đạt
4.039 USD/tấn. Xuất khẩu cao su sang các thị trường lớn tăng trưởng ổn
định, ngoại trừ Hàn Quốc (giảm 2,5%) và Nga (giảm 27,7%).
Cùng với xu
hướng tăng giá chung của các mặt hàng nông sản, mặc dù khối lượng cà
phê xuất khẩu hầu như không tăng nhưng giá trị xuất khẩu vẫn đạt được sự
tăng trưởng kỷ lục. Khối lượng xuất khẩu năm 2011 chỉ đạt 1,2 triệu tấn
và giá trị là 2,7 tỷ USD, xấp xỉ về lượng nhưng tăng tới 45,4% về giá
trị so với năm ngoái. Giá xuất khẩu trong tháng giảm nhẹ so với tháng
trước nhưng giá trung bình 11 tháng đạt 2.205 USD/tấn, tăng 49,2% so với
cùng kỳ năm 2010.
Lượng điều xuất khẩu ước đạt 178 ngàn tấn, kim
ngạch 1,5 tỷ USD, giảm 8,5% về lượng nhưng giá trị vẫn tăng 30,1% so với
cùng kỳ. Giá xuất khẩu bình quân 11 tháng đạt 8.294 USD/tấn, tăng 44,6%
so với cùng kỳ năm 2010. Khối lượng xuất khẩu giảm ở hầu hết các thị
trường tiêu thụ. Hoa Kỳ vẫn giữ vị trí đầu bảng về tiêu thụ điều của
Việt Nam, chiếm gần 1/3 lượng điều xuất khẩu.
Tổng giá trị xuất khẩu
gỗ và sản phẩm gỗ của cả năm 2011 đạt 3,9 tỷ USD, tăng so với cùng kỳ là
13,4%. Phần lớn các thị trường đều tăng trưởng khá về kim ngạch, trong
đó, ba thị trường lớn nhất là Hoa Kỳ, Nhật, và Trung Quốc.
Riêng thuỷ
sản, dù tốc độ tăng trưởng kim ngạch thấp (21,1%) so với mức bình quân
chung cả nước nhưng vẫn đạt tổng kim ngạch khoảng 6,1 tỷ USD, đứng thứ
tư trong nhóm các mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch cao nhất cả nước, sau
dệt may, điện thoại di động và dầu thô. Các thị trường tiêu thụ thuỷ sản
lớn vẫn là Hoa Kỳ và Nhật Bản, chiếm 1/3 giá trị xuất khẩu thuỷ sản.
Mặt hàng chiếm ưu thế lớn nhất vẫn là tôm sau đó là cá tra.
Trong số
các mặt hàng nông, lâm, thủy sản xuất khẩu, duy chỉ có mặt hàng chè giảm
cả khối lượng (giảm 4,3%) và giá trị (giảm 0,8%), dù giá chè xuất khẩu
bình quân 11 tháng đạt 1.520 USD/tấn bằng giá kỷ lục của năm 2008, tăng
3,5% so với cùng kỳ năm 2010. Cụ thể, lượng chè xuất khẩu cả năm 2011
ước đạt 131 ngàn tấn, với kim ngạch 198 triệu USD. Xuất khẩu chè sang
hầu hết các thị trường lớn đều suy giảm so với năm ngoái, ngoại trừ
Indonesia (tăng gấp 2 lần), Đức và Ảrập Xêút tăng nhẹ.
Trong khi đó,
năm 2011, cả nước đã nhập khẩu giá trị nhập khẩu nông, lâm, thuỷ sản ước
đạt 15,9 tỷ USD, tăng 31,1% so với cùng kỳ năm 2010. Cụ thể: khoảng 4,2
triệu tấn phân bón với kim ngạch nhập khẩu 1,8 tỷ USD, so cùng kỳ năm
trước tăng hơn 20% về lượng và 50,9% về kim ngạch; thuốc trừ sâu và
nguyên liệu cả năm 2011 đạt 631 triệu USD, tăng xấp xỉ 15% so cùng kỳ;
gỗ và sản phẩm gỗ có giá trị cả năm ước đạt 1,3 tỷ USD tăng 14% so cùng
kỳ; lúa mì năm 2011 ước đạt 2,3 triệu tấn với kim ngạch nhập khẩu là 787
triệu USD, tăng 4,6% so cùng kỳ năm trước về lượng và 38,6% về giá trị;
thức ăn gia súc và nguyên liệu: cả năm 2011 ước đạt 2,3 tỷ USD, tăng
6,8% so cùng kỳ. Tính ra, ngành nông nghiệp đã suất siêu 9 tỷ USD – một
thành công lớn trong năm đầy khó khăn, biến động của nền kinh tế.
(Theo Dai doan ket)