Sản xuất ván nhân tạo vào khuôn khổ
Cập nhật lúc: 27/12/2012 170
Cập nhật lúc: 27/12/2012 170
Nhận xét về hoạt động sản xuất và tiêu thụ ván nhân tạo hiện nay, ông Nguyễn Mạnh Dũng, Cục trưởng Cục Chế biến thương mại nông lâm sản và nghề muối, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) cho hay ngành công nghiệp hỗ trợ chưa đáp ứng nhu cầu của ngành chế biến ván nhân tạo.
Đặc biệt việc sản xuất các loại keo kết dính chưa đáp ứng với nhu cầu và tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp sản xuất ván nhân tạo. Việc sản xuất và nhập khẩu các loại phụ gia này đang được quản lý chất lượng dưới dạng sản phẩm, hàng hóa thuộc danh mục nhóm sản phẩm, hàng hóa có nguy cơ gây mất an toàn cho người dử dụng.
Trong khi đó, việc xây dựng quy chuẩn chất lượng cho sản phẩm này vẫn chưa được triển khai đồng bộ nên đã có trường hợp doanh nghiệp nhập khẩu keo gặp khó khăn khi thông quan.
Giám đốc bán hàng của một công ty chuyên cung ứng thiết bị cho các nhà máy sản xuất ván nhân tạo ở Việt Nam cho biết sản phẩm ván gỗ nhân tạo sản xuất và sử dụng phổ biến ở Việt Nam gồm có ván sợi, ván ghép thanh, ván dăm. Nhu cầu các loại ván rất lớn. “Mỗi năm lại có nhiều nhà máy sản xuất ván nhân tạo ra đời ở Việt Nam, nhưng vẫn không sản xuất đủ cho nhu cầu”, ông nói.
Ông Dũng cho hay đẩy mạnh chế biến ván nhân tạo, giảm dần chế biến dăm giấy xuất khẩu là chủ trương của ngành lâm nghiệp. Qua đó, bộ khuyến khích sử dụng các sản phẩm từ ván nhân tạo và gỗ từ rừng trồng, đặc biệt chú trọng phát triển ván sợi ép.
“Đây còn được xem là khâu đột phá trong giai đoạn 2012-2015 vì phát triển loại sản phẩm này vừa có thể nâng cao giá trị gia tăng của lâm sản, vừa tạo điều kiện để đa dạng hóa sản phẩm, ổn định và mở rộng thị trường lâm sản”, ông nói.
Cuối tháng 10-2012, Bộ NN&PTNT đã ban hành công văn số 2728/QĐ-BNN-CB phê duyệt “Quy hoạch công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030”. Công văn trình bày cụ thể các định hướng phát triển, quy mô, công nghệ chế biến, định hướng thị trường. Bộ đã đặt ra những mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể theo từng thời kỳ. Riêng ngành chế biến ván nhân tạo cũng được dành cho rất nhiều khoản, mục quy định cụ thể. Theo nội dung của công văn 2728, các nhà máy chế biến gỗ và ván nhân tạo được bố trí theo các vùng, trong đó ưu tiên xây dựng nhà máy ở miền núi có đủ nguyên liệu. Quy mô nhà máy chế biến là 60.000 – 100.000 m3 sản phẩm/năm đối với MDF, 20.000 m3 sản phẩm/năm đối với ván dăm. Yêu cầu sử dụng công nghệ, thiết bị phù hợp với từng loại sản phẩm, chú trọng áp dụng công nghệ xử lý nâng cao chất lượng gỗ, công nghệ tạo ra sản phẩm mới, công nghệ sản xuất keo dán và chất phủ mặt đáp ứng yêu cầu môi trường, tiết kiệm nguyên liệu trong sản xuất ván nhân tạo. Bộ NN&PTNT cũng đưa ra quy hoạch sản phẩm cụ thể, sản xuất ván nhân tạo: Trong giai đoạn 2011-2015 sản xuất ván dăm đạt 100.000 m3 sản phẩm/năm, ván sợi đạt 1,2 triệu m3 sản phẩm/năm, gỗ ghép thanh đạt 800.000 m3 sản phẩm/năm, các loại ván nhân tạo khác đạt 200.000 m3/năm. Trong các giai đoạn 2016-2020, 2021-2030 công suất ván dăm đạt 100.000 m3/năm, ván sợi đạt 1,8 triệu m3/năm do được khuyến khích. Gỗ ghép thanh đạt 1,5 triệu m3/năm. Quy hoạch sản xuất ván nhân tạo cũng được phân chia ra theo phạm trù địa lý thành các vùng, tiểu vùng như Tây Bắc, Đông Bắc, Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung bộ, Duyên hải Nam Trung bộ, Tây Nguyên, Đông Nam bộ, ĐBSCL. Riêng ván sợi với tổng công suất cao nhất 1,2 triệu m3 tập trung ở vùng Tây Nguyên, Đông Nam bộ và ĐBSCL với công suất 780.000 m3. |
(Theo TBKTSG)
Hôm nay:
Hôm qua:
Trong tuần:
Tất cả: