Thừa cà phê nhưng cơ hội không thiếu
Cập nhật lúc: 22/09/2011 183
Cập nhật lúc: 22/09/2011 183
Tồn kho robusta, một bí ẩn
Ba khu vực tiêu thụ cà phê lớn của thế
giới là Mỹ, EU và Nhật nắm hầu hết lượng tồn kho cà phê hiện nay, trong
đó hàng của Brazil và Việt Nam chiếm 70% và Colombia chiếm 25%, số còn
lại của các nước sản xuất cà phê nhỏ khác. Có thể nói rằng sản lượng cà
phê thế giới lớn, sức bán ra vì thế sẽ mạnh, lượng tồn kho càng có điều
kiện tăng nghiêng về phía các nước tiêu thụ trong điều kiện giá bị ép,
rẻ.
Tại Mỹ, báo cáo tồn kho của Hiệp hội Cà phê nhân (Green Coffee
Association-GCA) ra hàng tháng là rất quan trọng, nó ảnh hưởng khá lớn
đến TTKH arabica Ice New York. Một điều đáng ngạc nhiên, giá từ năm
ngoái đến năm nay tăng rất mạnh, nhưng hình như không phải do dao động
của lượng tồn kho.
Nếu từ đỉnh cao tháng 5/2003 với 6,5 triệu bao,
đến báo cáo mới nhất tính đến hết tháng 7/2011 là 4,8 triệu bao, chênh
lệch không lớn và mức 4,8 triệu bao được xem là khá quân bình (xin xem
biểu đồ phía trên).
Thời gian gần đây, có một số nhà phân tích cho
rằng tồn kho GCA chưa phải là quyết định giá cho arabica Ice mà là lượng
tồn kho được xác chất lượng của Ice (Ice certs). Có phần đúng! Vì, nếu
như tồn kho “Ice certs” có đỉnh vào tháng 10/2008 với 4,6 triệu bao, thì
nay chỉ còn trên 1,4 triệu bao.
Hàng tồn kho Ice certs là hàng cà
phê arabica chế biến ướt, rất khó đạt chất lượng, thường hàng arabica
chế biến ướt Colombia mới mong có điều kiện được chấp nhận. Thế nhưng,
cùng thời điểm đỉnh cao của hàng tồn kho ấy, tổng lượng tồn kho GCA của
tháng 10/2008 cũng chỉ đạt 5,4 triệu bao. Lượng tồn kho này giảm, được
hiểu rằng sau 3 năm liên tục mất mùa tại Colombia, hàng “Ice certs” giảm
và đang ở mức đáy.
Theo dự báo, niên vụ 2011/12, Colombia sẽ trụ lên
lại mức 10,5 triệu bao, tăng 1 triệu bao so với vụ này. Đến đây, ta
cũng có nhận định rằng tuy lượng tồn kho đạt chất lượng Ice arabica
giảm, tồn kho GCA nói chung vẫn ít suy suyễn so với đỉnh của nó tại
tháng 5/2003 (6,4 so với 4,8 triệu bao). Nếu xét về cung-cầu, tồn kho
xuống mức này chưa phải là mức đáng báo động.
Trong khi nó, lượng tồn
kho robusta đang là mối nguy cho giá theo từng giai đoạn. Có nghĩa là
khi người nắm hàng thắt, thì giá tăng khi họ thả thì giá giảm. Theo báo
cáo hai tuần mỗi kỳ, tính đến hết ngày 5/9/2011, lượng này còn 388.940
tấn ở tại các kho được TTKH Liffe ủy quyền (xin xem biểu đồ phía trên).
Những
tưởng, nếu như tồn kho Liffe certs không giảm nhanh, thì chí ít tồn kho
theo báo cáo Liên đoàn Cà phê Châu Âu (European Coffee Federation)
giảm, ở đây cũng không. Theo báo cáo mới nhất của ECF, tính đến cuối
tháng 7/2011, lượng tồn kho châu Âu ECS vẫn tăng, lên 13.659.296 bao,
tăng 138.979 bao so với tháng 6/2011!
Tồn kho robusta tại châu Âu
chưa giảm có thể do lượng hàng xuất xuống tàu từ Việt Nam và Brazil vẫn
tiếp tục ở mức cao nhờ giá xuất khẩu tốt. Dù các nhà xuất khẩu các nước
sản xuất không bán và xuất ra khỏi lãnh thổ nhiều, các nhà nhập khẩu còn
giữ hàng tại các kho ngoại quan và nội quan vẫn xuất đi đều đều. Như
trong tháng 8/2011, thực chất Việt Nam chỉ bán và xuất chừng 35.000 tấn,
nhưng thực tế xuất khẩu có thể đạt 75.000 tấn trong đó 40.000 tấn xuất
đi từ các kho ngoại quan, tức hàng hóa tuy chưa xuất khỏi cảng nhưng
thuộc quyền sở hữu của nhà nhập khẩu. Đó có thể là lý do tại sao tồn kho
ESC và Liffe certs chưa chịu giảm nhanh.
Trong 13,7 triệu bao tồn
kho ESC, ta tạm nhẩm tính tỉ lệ 9,7 triệu bao cho robusta và 4 triệu bao
cho arabica, hàng robusta từ Việt Nam đi, đến những ngày báo cáo, cũng
phải chiếm 5,5 đến 6 triệu bao là ít hay tương đương với 350.000 tấn. Và
như vậy, ai dám nói rằng hàng robusta thiếu trên thị trường toàn cầu!
Cà phê robusta thừa nhưng cơ hội vẫn không thiếu
Hàng
tồn kho có chứng nhận Ice arabica New York giảm, tức hàng loại tốt,
chất lượng cao, chế biến ướt thiếu cho giao dịch hàng giấy trên TTKH
này. Đấy là cơ hội cho các quỹ đầu cơ nhảy vào. Do thiếu hàng arabica có
giấy chứng nhận trên Ice, giá tháng 9/2011 bị siết lên cao hơn kỳ hạn
tháng 12/2011.
Tính đến hết ngày 13/9, giá trên TTKH Ice arabica, giá
tháng 9 cao hơn tháng 12/2011 là 2,5 cts/lb tức chừng chừng 55 đô
la/tấn. Yếu tố này giúp cách biệt giữa 2 loại cà phê trên 2 TTKH xa ra
nhiều hơn.
Nếu như đầu tháng 8/2011, giá arabica trên Ice cách
robusta Liffe chừng 3.100 đô la/tấn thì đầu tháng 9/2011 mức cách biệt
dâng lên chung quanh 4.100 đô la và tại các ngày gần đây, giá cách biệt
này vẫn quanh quẩn mức 3.800-3.900 đô la/tấn, giá robusta chỉ bằng 1/3
giá arabica
Đây chính là cơ hội thuận tiện để bán hàng robusta do
arabica quá đắt. Chắc chắn với mức cao như thế này của arabica (gần
6.000 đô la/tấn), nhiều nhà rang xay phải tìm robusta giá rẻ hơn để thay
thế.
Đối với hàng robusta chất lượng cao như hàng chế biến ướt, hàng
đánh bóng, hàng loại 1 sạch,…sẽ được nhà rang xay ưu tiên mua và họ sẵn
sàng trả thêm vài mươi đô la/tấn cho uy tín và chất lượng nghiêm chỉnh.
Nếu có cơ hội bán hàng robusta “hấp”, chất lượng có thể ngang ngửa với
arabica và rang xay sẵn sàng trả cao giá.
Hôm nay:
Hôm qua:
Trong tuần:
Tất cả: