Từ 1-7, quy định thêm thẩm quyền giải quyết khiếu kiện về đất đai
Cập nhật lúc: 01/08/2011
364
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt
được, vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại, vướng mắc phát sinh trong quá trình
giải quyết khiếu kiện về đất đai mà nguyên nhân cơ bản là hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật hướng dẫn khiếu kiện và giải quyết về đất đai ban
hành nhiều song vẫn còn có sự chồng chéo, mâu thuẫn hoặc xung đột pháp
luật và nảy sinh một số vướng mắc trong quá trình thực thi. Cụ thể về
quyền khởi kiện, thì nội dung được qui định tại điểm a khoản 2 Điều 138
Luật Đất đai 2003 với nội dung quy định tại khoản 2 Điều 2 Pháp lệnh Thủ
tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 đã vô tình làm hạn chế
quyền khởi kiện vụ án hành chính của công dân. Hoặc quy định về thời
hiệu khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi
hành chính về quản lý đất đai: thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính theo
quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính là 45
ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại. Trong khi đó,
Điều 31 Luật Khiếu nại, tố cáo cho phép thời hiệu khiếu nại là 980 ngày
kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được hành vi hành
chính… Bên cạnh đó, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
chưa có quy định cụ thể về thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ
án hành chính (nói chung) và trong lĩnh vực đất đai (nói riêng) dẫn đến
thực trạng có nhiều bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính
trong đó không ít vụ án liên quan đến sử dụng, quản lý đất đai không
được thi hành hoặc không được thi hành đầy đủ; đó cũng là một trong
nhiều nguyên nhân làm phát sinh khiếu nại bức xúc trong lĩnh vực quản lý
đất đai. Những hạn chế, bất cập của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ
án hành chính nêu trên đã làm giảm hiệu quả giải quyết các vụ án hành
chính của Tòa án nhân dân, gây trở ngại cho cá nhân, cơ quan, tổ chức
khởi kiện vụ án hành chính bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình,
trong đó có phần lớn là các vụ án hành chính liên quan đến lĩnh vực đất
đai. Để bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất đối với lĩnh
vực tố tụng hành chính trong hệ thống pháp luật, bảo đảm tính khả thi,
bảo đảm trình tự và thủ tục tố tụng hành chính dân chủ, công khai, đơn
giản, công bằng, thuận lợi cho người tham gia tố tụng thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của mình, đề cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân, cơ
quan, tổ chức trong hoạt động tố tụng hành chính đối với công tác giải
quyết khiếu kiện về đất đai, ngày 24-11-2010 tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội
khóa XII đã thông qua Luật Tố tụng hành chính, trong đó tại Điều 264 của
luật đã sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 136 của Luật Đất đai 2003 về giải
quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai, cụ thể:
Nếu tranh chấp về quyền sử dụng đất mà
đương sự không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một
trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật
Đất đai năm 2003 thì được giải quyết như sau:
-Trường hợp Chủ tịch Ủy ban nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết mà một bên hoặc các
bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu
nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
giải quyết hoặc khởi kiện theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
-Trường hợp Chủ tịch Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết mà một bên hoặc các bên
đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại
đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện theo quy định
của Luật Tố tụng hành chính.
Hai quy định này đã mở rộng thêm quyền
của người khiếu kiện được lựa chọn cơ quan có thẩm quyền giải quyết, đó
là cơ quan hành chính (UBND cấp tỉnh; Bộ Tài nguyên và Môi trường) hoặc
cơ quan tố tụng (Tòa hành chính của Tòa án nhân dân) để giải quyết lần
2. Còn theo quy định cũ, tại Điều 136 của Luật Đất đai quy định về quyền
khiếu nại lần 2 của đương sự đối với Quyết định giải quyết lần đầu của
chủ tịch UBND cấp huyện chỉ quy định khiếu nại nại tiếp đến chủ tịch
UBND cấp tỉnh để giải quyết lần 2 và đó cũng là quyết định giải quyết
cuối cùng. Tương tự khiếu nại lần 2 của đương sự đối với Quyết định giải
quyết lần đầu của chủ tịch UBND cấp tỉnh chỉ quy định khiếu nại tiếp
đến
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường
để giải quyết lần 2 và đó cũng là quyết định giải quyết cuối cùng. Cũng
từ những quy định làm hạn chế quyền khởi kiện của công dân trong tranh
chấp đất đai, mặt khác tính công khai, minh bạch, trình tự, thủ tục
trong quá trình giải quyết chưa được tuân thủ nghiêm minh do vậy khiếu
kiện hành chính về tranh chấp đất đai vẫn là một trong những khiếu kiện
bức xúc hiện nay. Tuy nhiên quy định của Điều 136 Luật Đất đai năm 2003
đã hết hiệu lực thi hành từ 1-7-2011.
Ngoài ra Điều 264 của Luật Tố tụng hành chính cũng tiến hành sửa đổi, bổ sung Điều 138 của Luật Đất đai năm 2003, như sau:
“Người sử dụng đất có quyền khiếu nại quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lý đất đai.
Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại quyết định hành chính, hành vi
hành chính về đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu
nại. Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu kiện quyết định hành chính, hành
vi hành chính về đất đai thực hiện theo quy định của Luật Tố tụng hành
chính”.
Từ ngày 1-7-2011 Luật Tố tụng hành
chính có hiệu lực thi hành, phần nào bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất
của hệ thống pháp luật trong việc giải quyết khiếu kiện về đất đai, góp
phần bảo vệ tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, bảo
đảm nâng cao trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước và của cán bộ,
công chức nhà nước trong việc thực thi nhiệm vụ.
LG. Đinh Xuân Dũng (Sở Tư pháp)